Trong quá khứ, chúng ta có thể sáng chế ra thứ gì đó và vui
vẻ với lợi ích của nó đem lại cho tới mãi cuối đời. Thời gian đã thay đổi. Ngày
nay chúng ta cần tiếp tục đổi mới và giữ vững sự lãnh đạo – điều đó có nghĩa là
chúng ta cần có các kỹ năng tư duy mạnh để có thể tiếp tục sản sinh ra những ý
tưởng chiến thắng mới. Nhưng đâu là sự khác biệt giữa các kỹ năng tư duy thông
thường và kỹ năng tư duy sức mạnh?
Do bản chất tự nhiên của công việc, tôi có cơ hội duy nhất
để gặp rất nhiều người: nhà tư duy bên ngoài, nhà sáng chế và các nhà đổi mới
đến từ rất nhiều lĩnh vực khác nhau: công nghệ, kinh doanh, nghệ thuật. Dưới
đây tôi sẽ tổng kết ở 12 khía cạnh khác biệt, dựa trên kinh nghiệm rút ra từ
rất nhiều năm.
1. Tư duy đa hệ và Tư
duy một điểm (tập trung)
Trong hầu hết các trường hợp, khi chúng ta cố gắng giải
quyết một vấn đề, chúng ta thường tập trung vào những điểm rất hẹp nơi vấn đề
xuất hiện. Kết quả là chúng ta tự giới hạn bản thân chỉ quan tâm tới những
thành phần liên quan trực tiếp tới vấn đề. Tuy nhiên nhìn nhận vấn đề từ những
góc nhìn liên quan tới phần còn lại của hệ thống nơi vấn đề xuất hiện giúp
chúng ta nhận ra phạm vi cơ hội lớn hơn, hiểu biết sâu hơn về nguồn gốc của vấn
đề, và nhận ra những chiến lược giải quyết một vấn đề rất khác biệt theo những
mức độ khác nhau. Do vậy, chúng ta luôn luôn nên nhìn vấn đề như một thành phần
của hệ thống lớn hơn và đồng thời cũng nhận biết giải pháp của chúng ta sẽ gây
ra ảnh hưởng như thế nào tới tương lai của hệ thống và môi trường xung quanh.
Khi chúng ta muốn cải tiến (một cách sáng tạo) một hệ thống – kỹ thuật, kinh
doanh... -- chúng ta nên nhìn nhận về quá khứ để tìm thấy so với quá khứ, hệ
thống đã trải qua những thay đổi nào và đâu là động lực của những sự thay đổi
đó.
Nhìn nhận một vấn đề hoặc một hệ thống dưới một góc nhìn
khác cũng giúp nhận ra những dạng giải pháp khác nhau và các chiến lược tiến
hoá khác nhau. (“Sơ đồ tư duy đa hệ” là một trong những công cụ rất mạnh chủ
chốt của TRIZ, còn được biết tới dưới tên gọi “Toán tử hệ thống,” hoặc “Màn
hình chín hệ.”)
2. Tư duy trừu tượng
với Tư duy cụ thể
Tư duy cụ thể bắt chúng ta phải đứng tại một mức độ chi tiết
nằm bên trong phạm vi đã biết của các giải pháp và khái niệm và cố gắng thích
nghi chúng với vấn đề của chúng ta. Kết quả là, chúng ta hoặc bị bế tắc hoặc sẽ
đi tới những cải tiến nhỏ (dần dần). Tư duy trừu tượng (khái niệm hoá) đưa quá
trình giải quyết vấn đề lên một tầm cao mới và phá vỡ tính ỳ tâm lý do những
hình ảnh hoặc thông tin cụ thể, chi tiết tạo ra. Nó cũng giúp nhận ra sự tương
tự (về giải pháp cho vấn đề) nằm ở những lĩnh vực rất khác biệt nhau.
Nếu nói từ “bức tường” và bạn sẽ hình dung ngay ra một ngôi
nhà làm bằng đá hoặc gạch. Tuy nhiên, nếu bạn thay thế từ “bức tường” với từ
“hàng rào” chúng ta sẽ mở rộng không gian ngữ nghĩa về những điều có thể. Nhưng
từ “bức tường” có thể là một thác nước, một dòng khí, hoặc một khoá ánh sáng...
Nếu bạn nói từ “công ty” chúng ta ngay lập tức liên tưởng tới một văn phòng với
nhân viên và bàn ghế trong khi một công ty có thể là ảo, với những nhân viên
làm việc tại nhà... Khái niệm “tổ chức” sẽ làm cho chúng ta trở nên trừu tượng
hóa hơn.
Những khái niệm cụ thể luôn tạo ra ràng buộc cho cách tư duy
sáng tạo bởi vì chúng gắn liền với những hình ảnh cụ thể và làm gia tăng tính ỳ
tâm lý của chúng ta. Tư duy trừu tượng trái lại giúp nhận ra sự liên kết giữa
những sự vật không liên quan và các sự kiện và đi đến những ý tưởng và khái
niệm rất khác biệt. Sự phát triển của tư duy trừu tượng sẽ làm gia tăng khả
năng sáng tạo của chúng ta.
3. Tư duy đột phá với
Tư duy thoả hiệp
TRIZ phát biểu sự xuất hiện của các mâu thuẫn là một động
lực của sự phát triển của các hệ thống kỹ thuật, và cách giải quyết mâu thuẫn
thông qua loại bỏ thoả hiệp giúp đạt tới những bước phát triển nhảy vọt của hệ
thống. Ý tưởng giải quyết các mâu thuẫn để đạt tới giải pháp đột phá không phải
do TRIZ đưa ra: điều này đã được các nhà tư tưởng vĩ đại Immanuel Kant và Georg Hegel giới thiệu từ
thế kỷ 17 và 18. TRIZ cố gắng đưa lý thuyết duy vật biện chứng áp dụng vào
ngành khoa học. Ví dụ, tốc độ của xe ngựa sẽ bị giới hạn bởi chính tốc độ của
con ngựa kéo, không kể bạn có nỗ lực thiết kế lại chiếc xe ngựa tốt tới đâu,
hoặc bạn cho con ngựa ăn tốt thế nào, hoặc bạn sử dụng tới bao nhiêu con ngựa
đi chăng nữa.
Để tìm ra một giải pháp đột phá – để đạt tới tốc độ cao hơn
chẳng hạn, chúng ta cần thách thức cả những khái niệm hiện có và suy nghĩ về
khả năng thay thế con ngựa với điều gì đó có khả năng làm cho chiếc xe đi nhanh
hơn, ví dụ như một chiếc động cơ đi-ê-den (diesel) chẳng hạn.
Hiển nhiên đây là một hạn chế của rất nhiều dạng hệ thống do
con người tạo ra. Ví dụ, trong quá trình phát triển, các ngành kinh doanh, xã
hội và các hệ thống chính trị trải qua rất nhiều mâu thuẫn. Tuy nhiên khi chúng
ta đối mặt với mâu thuẫn, bộ não của chúng ta có xu hướng tiếp cận mềm mại hoá
các nhu cầu và tìm kiếm giải pháp thoả hiệp thay vì tập trung vào việc tìm kiếm
các giải pháp đột phá cho phép loại bỏ hoàn toàn các mâu thuẫn và giúp chúng ta
đi tới những sáng tạo huỷ diệt. Do các mâu thuẫn vần tồn tại (chưa được giải
quyết) – và chúng trở nên ngày một sâu sắc hơn theo thời gian. Sự nhận biết sớm
về các mâu thuẫn và giải quyết chúng là một trong những chức năng quan trọng
nhất của “sức mạnh” tư duy.
4. Tư duy đấu
tranh/nổi bật với tư duy bảo hộ
Chúng ta thường sợ khi phải tư duy đi ra bên ngoài những
khái niệm hay ý tưởng đã có. Nhưng tất cả những đột phá thường chỉ xảy ra khi
bạn vượt qua các rào cản do chính tính ỳ tâm lý tạo nên. Để phá vỡ các rào cản
này, cần tới sự quyết liệt ở hành động, điều kiện, hay các yêu cầu. Thông
thường chúng ta cần phải quyết liệt tới độ chúng ta thấy tưởng chừng như là
không thể.
Ví dụ, chúng ta muốn phát triển một khái niệm mới về điện
thoại di động. Vậy chiếc điện thoại di động cần phải nhỏ như thế nào? Chúng ta
bắt đầu nghĩ về những kích thước bình thường của một chiếc điện thoại – ví dụ,
nó có thể dài 10 cm. Vậy có thể sẽ chỉ là 6 cm? SAI! Tưởng tượng chiếc điện
thoại chỉ dài cỡ 1 cm, hoặc tốt hơn là 1mm, hoặc thậm chí đạt tới kích thước
của một tế bào sinh học. Điều này rõ ràng tới mức sẽ tạo ra một khái niệm về
chiếc điện thoại di động hoàn toàn khác biệt. Hoặc nếu bạn muốn một màn hình
điện thoại di động to tới mức choán hết cả tầm mắt của mình. Bạn sẽ tạo ra
những khái niệm hoàn toàn mới mẻ về chiếc màn hình: có lẽ, một màn hình máy
chiếu, hoặc một màn hình gắn liền với tấm kính chắn... Chủ động đẩy giới hạn ra
xa, chúng ta sẽ gia tăng cơ hội khám phá những giải pháp đột phá mới mẻ.
5. Tư duy phi tuyến
với tư duy tuyến tính
Có một thực tế là gần như 80-90% dự báo dài hạn của những
nhà tương lai học đều sai. Một sai lầm phổ biến là họ thường dự báo dựa trên
các xu hướng mà thiếu đi sự quan sát các yếu tố mới hay nhân tố mới có khả năng
gây ảnh hưởng hoặc trở nên quan trọng vào ngày mai nhưng lại hoàn toàn ẩn mình
hoặc không thể dự báo từ hôm nay. Điều tương tự xảy ra với lĩnh vực giải quyết
vấn đề: đứng yên trong vòng một khuôn khổ khái niệm và các mối quan hệ thật khó
để nhận ra những mối kết nối phi tuyến. Tư duy phi tuyến cũng giúp gắn kết
những sự vật không hề liên quan ngày hôm nay nhưng có thể kết nối với nhau
trong tương lai và tạo ra ảnh hưởng lớn tới công nghệ hay xã hội, ví dụ như, sự
phát triển của máy vi tính cá nhân chẳng hạn.
Tư duy phi tuyến không phải là dễ dàng, do hiểu những nhân
tố dẫn tới sự phát triển phi tuyến của một hệ thống cụ thể, chúng ta cần nhận
ra cách thức hệ thống hoạt động, cũng như các hệ trên đang vận hành thông qua
cách phân tích những mâu thuẫn của ngày hôm nay sẽ được giải quyết ra sao ở ngày
mai.
6. Tư duy đa dạng và
tư duy đơn nhất (nhất thể)
Các sáng tạo đổi mới đột phá hầu hết đều dựa trên tri thức
đến từ bên ngoài. Do đó chẳng ngạc nhiên khi tôi nhận thấy một điều chung trong
những nhà sáng chế và tư duy tôi may mắn được gặp gỡ là họ đều “kẻ sát thủ của
tri thức.” Và một điều cũng quan trọng không kém, tất cả những con người này
đều không giới hạn bản thân vào một lĩnh vực cụ thể nào: đó là một nguyên tắc,
họ xử lý rất nhiều thông tin đến từ nhiều lĩnh vực khác nhau. Một thư viện của Voltaire
sống vào thế kỷ 18 có tới 6.814 cuốn sách, và hơn 2000 cuốn có dấu vết ghi chép
của nhà khoa học. Thư viện của Thomas Edison có tới hơn 10.000 cuốn sách. Một
người bạn của tôi, người có sáng chế đột phá trong ngành hoá học, cũng có thư
viện với hơn 10.000 cuốn sách khoa học và kỹ thuật, và ông ta đã đọc gần hết
chúng.
Sự đa dạng giúp bạn nhìn thấy những giải pháp trong các lĩnh
vực khác nhau và phát triển những trải nghiệm ít gặp giúp nhận ra các hình mẫu
giữa những sự việc tưởng như không có bất cứ mối liên hệ nào.
7. Tư duy cấu trúc
(hệ thống) và tư duy ngẫu nhiên
Chúng ta thường suy nghĩ để giải quyết một vấn đề “lớn” theo
cách thức sáng tạo chúng ta phải “không cần học hỏi và phi cấu trúc hoá” càng
nhiều càng tốt. Đúng, bởi vì điều đó giúp chúng ta chống lại tính ỳ tâm lý.
Nhưng như tác giả G. Altshuller, cha đẻ của TRIZ, không học hỏi và phi cấu trúc
chỉ làm việc tốt khi chúng ta giải quyết các vấn đề có mức khó thấp đòi hỏi số
phép thử không nhiều để tìm ra giải pháp. Một lúc nào đó trong đời, bạn sẽ may
mắn.
Nhưng khi chúng ta liên tục gặp vấn đề với độ phức tạp cao,
chúng ta cần cấu trúc lại quy trình giải quyết vấn đề. Chúng ta phải có một lộ
trình để định hướng từ vấn đề tới giải pháp, tái sử dụng những trải nghiệm quá
khứ, và các mẫu cho phép tạo ra giải pháp mạnh mẽ.
Các quy trình có giết chế tính sáng tạo hay không? Không một
chút nào cả. Người Rome cổ xưa coi công việc tính toán là một nghệ thuật và dựa
trên các nguyên tắc sáng tạo. Ngày nay các phép tính này đã hoàn toàn được tự
động hóa và không còn ai phải làm việc này nữa. Đưa các quy trình có cấu trúc
chặt chẽ vào hỗ trợ giải quyết vấn đề không có nghĩa là giết chết sáng tạo
thông qua việc hành chính hoá: sức tưởng tượng sáng tạo vẫn còn nguyên ý nghĩa
to lớn để tìm ra một giải pháp cuối cùng. Nhưng chúng ta có thể đi xa hơn trong
việc tiết kiệm thời gian và nỗ lực thông qua quy trình có cấu trúc và do vậy
tránh được những lỗi lầm đắt giá. Điều quan trọng nhất là một quy trình có mạnh
mẽ có cấu trúc và định nghĩa rõ ràng.
8. Tư duy lý tưởng
với Tư duy tiêu thụ (hưởng thụ)
Ngay từ nhỏ chúng ta đã học nếu muốn thứ gì, chúng ta cần
phải trả giá bằng thứ gì đó. Nếu bạn muốn có một chiếc xe, bạn cần phải bỏ tiền
ra để mua nó. Nếu bạn muốn khởi sự doanh nghiệp, bạn cần phải đầu tư, tìm người
hợp tác, mua một công nghệ mới, thiết bị văn phòng,... Nếu bạn muốn xây một
ngôi nhà, chúng ta cần gạch, kính, gỗ... Tuy nhiên, “cái giá phải trả” hoàn
toàn khác nhau cho cùng một kết quả, và đó là điều mà chúng ta không được học
rõ ràng.
Một lần, tôi phải giúp khách hàng có vấn đề với chiếc robot
không được điều chỉnh phù hợp với công việc, và kết quả là họ mất hoàn toàn một
sản phẩm. Khách hàng liên hệ với nhà sản xuất robot người đề xuất một phiên bản
nâng cấp robot trong vài tháng thông qua việc thêm một số bộ phận điện tử và cơ
khí, nhưng giải pháp như vậy đòi hỏi khách hàng phải mất thêm gần 500 nghìn
Euro. Một chút quá đắt, nhưng cũng là một lựa chọn duy nhất. Tuy nhiên, thông
qua cách phát biểu khái niệm “Kết quả lý tưởng cuối cùng” chúng tôi có thể giải
quyết vấn đề trong vòng một giờ và có thể đưa vào triển khai thực tế trong vòng
một ngày: chúng tôi chỉ sử dụng các nguồn lực có sẵn trong quy trình sản xuất.
Kết quả: không có sản phẩm nào bị mất mát.
Lý tưởng là một khái niệm rất mạnh bắt buộc chúng ta phải
nhận ra những nguồn lực dự trữ để đạt tới mục tiêu đề ra. Một vài năm trước
đây, nếu bạn muốn có xuất bản một đoạn băng video trên trang web của công ty,
chúng ta sẽ phải trả rất nhiều cho những kênh truyền thông băng thông lớn. Ngày
nay chúng ta chỉ cần nạp đoạn video đó lên trên trang YouTube, liên kết (link)
với nó, và chẳng phải trả bất cứ xu nào. Những nguồn lực như vậy tồn tại ở khắp
mọi nơi – và những người tư duy khôn ngoan sẽ có thể đạt tới kết quả cực kỳ bất
ngờ thông qua việc sử dụng đúng nguồn lực vào đúng thời điểm, hoặc thậm chí tạo
ra những nguồn lực có giá trị cho người khác sử dụng.
9. Tư duy “Mục tiêu
cuối cùng” với Tư duy hời hợt
Các mục tiêu là tất cả. Các mục tiêu quyết định kết quả của
chúng ta, thiện chí của chúng ta, và cả chiến lược của chúng ta. Nếu chúng ta
thiết lập một mục tiêu sai lầm, chúng ta sẽ phải trả giá; nếu chúng ta thiết
lập mục tiêu yếu kém, chúng ta sẽ đạt tới kết quả yếu kém. Tôi còn nhớ vài năm
trước tôi đã đọc một bài báo trên tạp chí Times, của một nhà nghiên cứu về chữa
trị bệnh ung thư. Kết luận của ông ta là hầu hết các nghiên cứu của Mỹ đều tập
trung vào việc làm tiêu từng phần (giảm kích thước) hơn là định hướng làm thế
nào để tiêu diệt toàn bộ khối u... Nhưng giảm kích thước khối u không có nghĩa
là loại bỏ được nó? Không nhất thiết cứ phải làm như thế mãi. Với TRIZ, G. Altshuller đưa ra khái niệm về một “Mục
tiêu cuối cùng”: hãy thiết lập các mục tiêu có vẻ là không thể với ngày hôm
nay: vươn tới các vì sao, hay loại bỏ hoàn toàn nạn đói, và các mục tiêu tương
tự như vậy. Có thể, chúng ta sẽ không thể đạt tới mục tiêu viễn tưởng đó trong
suốt cuộc đời của mình, nhưng quá trình thực hiện điều đó sẽ chắc chắn là lớn
hơn rất nhiều so với mục tiêu nhỏ đặt ra ngay ở bước khởi đầu.
10. Tư duy tiến hoá
với tư duy thử-và-sai
Trước TRIZ, hầu hết các sáng tạo đều được tạo ra nhờ phương
pháp thử và sai. Tuy nhiên các nghiên cứu của TRIZ đã khám phá ra các luật và
xu hướng của các hệ thống nhân tạo, và tri thức về những xu hướng này trở thành
cần thiết để chúng ta nhìn thấy tương lai của các hệ thống mà không phải đoán
mò. Ví dụ, chúng ta biết về những hệ thống cụ thể ở giai đoạn đầu tiên sẽ có xu
hướng gia tăng mức độ linh hoạt thông qua tăng kích thước, phân nhỏ thành nhiều
thành phần, và tăng cường mức độ linh hoạt của các mối liên kết giữa các thành
phần; nhưng khi hệ thống vượt qua một điểm nhất định của quá trình tiến hoá,
một số lượng các thành phần, kích thước, và mức độ linh hoạt của toàn bộ hệ
thống sẽ bị suy giảm. Ví dụ, hãy xem xét quá trình phát triển của hệ thống lưu
trữ của máy tính: đầu tiên là các thiết bị từ tính nhằm lưu trữ thông tin gồm
có những tệp băng từ rất lớn với các thành phần dịch chuyển và chiếm rất nhiều
chỗ. Sau đó chúng được thay thế bằng các tệp ghi, ổ cứng, và cả đĩa quang
(DVD). Ngày nay, chúng ta thậm chí còn tiến tới loại bỏ cả các ổ cứng: chúng sẽ
không còn cần thiết khi chúng ta có thể thay bằng những thiết bị nhỏ, tiết kiệm
năng lượng, dung lượng lớn (tương tự như thẻ nhớ USB) mà không có bất cứ thành phần
chuyển động cơ nào.
Dưới sự phát triển của cơ khí sẽ giúp làm giảm thời gian một
ý tưởng mới ra đời, phát triển và gia nhập thị trường vào đúng thời điểm.
11. Tư duy dài hạn
với Tư duy ngắn hạn
Sửa chữa ngay lỗi lầm ngắn hạn hay đầu tư vào tương lai? Tất
nhiên, trong một vài trường hợp sửa lỗi ngay là cần thiết và chấp nhận được,
nhưng khi chúng ta tư duy chỉ giới hạn vào những sự vụ chúng ta sẽ bị chúng
“đè” nghiến. Cho đến một ngày chúng ta sẽ nhận ra những đối phó ngắn hạn sẽ
không còn mấy tác dụng nhưng chúng ta cũng không còn đủ thời gian và nguồn lực
để tránh thảm hoạ đang tới gần. Do vậy những đối phó ngắn hạn sẽ chỉ có giá trị
nếu chúng cân bằng với các mục tiêu đầu tư dài hạn.
12. Tư duy viển vông
với Tư duy thực tiễn
Đây chính là điểm vai trò của tưởng tượng sáng tạo trở nên
cực kỳ cần thiết. Trong cuốn sách “Tâm lý học sáng tạo” xuất bản vào năm 1896,
nhà tâm lý học người Pháp Theodule Ribot đã cho biết chúng ta đạt tới đỉnh cao
sáng tạo vào những năm 12 – 14 tuổi, sau đó năng lực này suy giảm dần theo thời
gian. Và điều đó là sự thật: khi chúng ta còn trẻ, chúng ta chơi các trò chơi,
sáng chế ra nhiều nhân vật tưởng tượng, khám phá không gian... và do vậy chúng
ta tăng cường kỹ năng tưởng tượng sáng tạo với các trò chơi đó, không có bất cứ
ai yêu cầu chúng ta chỉ được phép chơi trong phạm vi của những “lý do” (ND –
hạn chế mang tính chất lý do). Do đó chúng ta thường xuyên vượt qua giới hạn
của kiến thức và trở nên thư giãn với những giới hạn của tâm trí. Khi chúng ta
trở nên già hơn, chúng ta bị ngập vào thế giới của các lý do và thậm chí còn bị
trừng phạt về những tư duy điên rồ. Nhưng không có con đường nào khác: di
chuyển “ra ngoài biên giới của chiếc hộp” bắt buộc chúng ta phải vượt qua các
giới hạn của trí tuệ. Thật may mắn, trí tưởng tượng sáng tạo không phải là điều
huyền bí; bất cứ ai cũng sở hữu nó và có thể phát triển trí tưởng tượng của bản
thân.
Cuối cùng, tôi cho rằng điều quan trọng nhất G. Altshuller
và TRIZ đóng góp không phải là một hộp công cụ nhằm hỗ trợ các giai đoạn của
sáng tạo, mà còn vượt xa hơn thế, giúp
cho chúng ta học hỏi và xây dựng sức mạnh tư duy của mỗi cá nhân.
TRIZ365 – Theo SAGA.VN
RSS to blogger tool
Trả lờiXóahttp://autoblogpost.trungdong.net/
Hay quá, nhưng rất khó để thực hiện
Trả lờiXóaThx đã chia sẻ :D
Trả lờiXóahay quá, cảm ơn blog
Trả lờiXóa